Dienstag, 24. März 2009

"CỐ Ý LÀM TRÁI" ĐỂ ĐỔI MỚI

SỰ KIỆN SSP LẮP ĐẶT TRẠM VÊ TINH MẶT ĐẤT:

MỘT KIỂU “CỐ Ý LÀM TRÁI” ĐỂ ĐỔI MỚI ?

Vào tháng 8/2002, Trung tâm Công nghệ phần mềm Sài Gòn (Sàigon Software Park viết tắt SSP, có trụ sở tại 123 Trương Định quận 3 TPHCM) đã thử nghiệm lắp đặt một trạm mặt đất cỡ nhỏ (VSAT) thu phát Internet qua vệ tinh nhằm phục vụ có hiệu quả cho hoạt động của Trung tâm. Ngày 4/12/2002 Bộ Bưu chính viễn thông (BCVT) đã có công văn yêu cầu SSP dừng hoạt động trạm VSAT nhưng đến nay SSP vẫn tiếp tục triển khai. Sự kiện này được lãnh đạo Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm.

VÌ SAO SSP TỰ Ý LẮP TRẠM VSAT?

SSP là Trung tâm phần mềm đầu tiên của cả nước được Thành uỷ, UBND TPHCM giao trách nhiệm đi đầu trong việc cụ thể hoá nghị quyết TW2 nhằm thí điểm chủ trương đi tắt đón đầu về khoa học công nghệ.. Theo tinh thần đó, các đơn vị thuộc Tổng Cty BCVT phải đáp ứng đầy đủ nhu cầu sử dụng các dịch vụ viễn thông và Internet phục vụ cho sản xuất phần mềm cả về chất lượng và giá cả cạnh tranh. Ngày 30/11/2000 Chính phủ có công văn số 1104/CP-KG “giao Tổng cục bưu điện (TCBĐ) và Tcty BCVT Việt Nam chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ kết nối Internet cho SSP tại 123 Trương Định…”. Công văn số 174/TB- VPCP ngày 15/12/2000 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến kết luận của Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo “giao TCBĐ ban hành văn bản hướng dẫn về việc kết nối Internet cho công viên phần mềm Quang Trung và SSP… Giao Tcty BCVT cung cấp dịch vụ Internet (kết nối tới hàng rào) cho SSP tại 123 Trương Định… Xây dựng “tường lửa” riêng ”. Tuy nhiên, các yêu cầu nói trên đều không được đáp ứng một cách đầy đủ.

Trên thực tế, đường truyền Internet của SSP do VDC cung cấp là rất xấu, liên tục tắc nghẽn (kể từ tháng 9/2001 đến nay) gây ảnh hưởng đến việc sản xuất và kinh doanh của các đơn vị phần mềm trong khu công nghệ. SSP đã bỏ lỡ một hợp đồng trị giá 3 triệu USD với đối tác nước ngoài vì không thể thực hiện được. Về giá, mặc dù đã được giảm 50% cho ưu đãi phần mềm nhưng giá của một đường truyền 2MB thuê qua Cty Viễn thông Quốc tế (VTI) vẫn là 39.500 USD/tháng (37.000 USD cho VTI và 2.500 USD trả cho đối tác). Mức giá này là quá cao trong khi đó chi phí của một trạm vệ tinh tốc độ tương đương chỉ phải trả khoảng 7.000 USD. Liên quan đến chất lượng, hiện toàn bộ băng thông Internet của VN là 136MB chỉ đáp ứng được khoảng trên dứới 400.000 người sử dụng nhưng con số người truy cập Internet của VN đến nay là trên 1 triệu người. Tại SSP có 553 lập trình viên, họ có nhu cầu sử dụng Internet thường xuyên, liên tục với chất lượng đảm bảo thông suốt tốc độ truy cập tức thời bởi Internet là công cụ của họ và đối tác của họ là các công ty công nghệ thông tin quốc tế đẳng cấp cao. Nếu SSP cứ phụ thuộc vào một đơn vị cung cấp đường truyền chất lượng kém sẽ không thể có một mô hình khu công nghệ phần mềm hiệu quả.

Với mục đích nâng cao hiệu quả của trung tâm, ngày 18/7/2002 SSP đã gửi tờ trình gửi lên Chính phủ, các ban ngành liên quan và TCBĐ “về việc xin chủ trương thí điểm thiết lập đường kết nối Internet trực tiếp qua vệ tinh phục vụ sản xuất phần mềm tại 123 Trương Định”. Ngày 29/7/2002, Văn phòng chính phủ đã có công văn số 415/VPCP-CN yêu cầu TCBĐ xem xét và có ý kiến chính thức bằng văn bản gửi về VPCP trước ngày 20/8/2002 để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên TCBĐ đã không trả lời công văn của SSP cũng như công văn 415 của VPCP. Không thể chịu đựng cách làm việc kiểu “rùa” của TCBĐ nên SSP đã chủ động lắp đặt một trạm mặt đất cỡ nhỏ (VSAT, do Bộ Công an nhập từ Mỹ giá trị 60.000 USD), được dùng để kết nối Internet quốc tế không qua kiểm soát của VTI rồi báo cáo lên TCBĐ. Cho đến tận sau khi thành lập Bộ BCVT, ngày 4/12/2002 Bộ mới có văn bản số 57 yêu cầu SSP đình chỉ hoạt động trạm VSAT. SSP cũng đã có công văn phúc đáp số 211 cho Bộ BCVT và đang chờ ý kiến chỉ đạo của Chính phủ về vấn đề này.

PHẢI CHĂNG “CỐ Ý LÀM TRÁI” ĐỂ ĐỔI MỚI?

Liên quan đến vấn đề đảm bảo an ninh thông tin, SSP đã được Chính phủ cho phép xây dựng “bức tường lửa” riêng để đảm bảo việc khai thác các dịch vụ Internet. Sau 2 năm tự quản lý “bức tường lửa” dưới sự hỗ trợ và kiểm soát của các cơ quan hữu quan, việc đảm bảo an ninh thông tin của SSP là hoàn toàn tốt. Nhờ có VSAT đã làm lợi cho các doanh nghiệp do truy cập Internet nhanh, giá rẻ. Tuy nhiên việc SSP tự lắp đặt VSAT khi chưa có giấy phép của Bộ BCVT là việc làm chưa đúng trình tự theo quy định của pháp luật, thể hiện sự bức xúc của doanh nghiệp trước sự trì trệ của ngành BCVT. Theo Nghị định 55/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet, chỉ doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP) được kết nối Internet quốc tế. SSP không thuộc đối tượng này và chưa được cấp phép mà làm như vậy là trái luật. Tuy nhiên ở đây tình tiết lại không thể coi lá trái pháp luật được, bởi lẽ SSP đã được phép của Chính phủ, TCBĐ và các ngành chức năng cho phép được phép kết nối trực tiếp Internet trước “bức tường lửa” quốc gia và trên thực tế thì SSP đã tự chịu trách nhiệm về mặt an ninh thông tin riêng theo tinh thần văn bản chỉ đạo của Chính phủ nêu trên từ năm 2000. SSP không phụ thuộc trách nhiệm quản lý đối với VTI- VNPT (Tổng cty BCVT). Về thực chất khi SSP chịu trách nhiệm trực tiếp với Bộ công an về mặt an ninh cũng giống như VNPT thì không thể nói rằng SSP không thông qua sự kiểm soát của VTI-VNPT. Oâng Nguyễn Hữu Hiền – Giám đốc SSP nói: “Trong trường hợp này, chúng tôi đã xác định đây là việc làm dũng cảm đầy tự hào trong thời kỳ đổi mới để rút ra bài học kinh nghiệm tự thực tiễn để trình lên lãnh đạo để điều chỉnh chính sách sao cho phù hợp hơn với tình hình nhiệm vụ mới hiện nay. Nếu phải bị coi là phạm pháp thì tôi cũng hết sức thanh thản và tự hào, cũng giống như đồng chí Kim Ngọc đã từng chịu đựng , hy sinh trong đổi mới để Đảng có Khoán 10 vậy”.

Cũng cần nói thêm rằng, tại Việt Nam, ông Nguyễn Hữu Hiền là một người có uy tín trong lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT). Ngoài chức vụ Giám đốc SSP, ông Hiền còn được mời làm Giám đốc tư vấn dự án Trung tâm công nghệ phần mềm nhiều địa phương như Cần Thơ, Thừa Thiên - Huế, Hải Phòng , Đà Nẵng, Giám đốc tư vấn dự án E-Town của Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE)… Trong tâm trạng đầy bức xúc, ông Nguyễn Hữu Hiền đã thừa nhận với PV báo Pháp Luật: “Chúng tôi biết rõ đây là cố ý làm trái nhưng không phải gây hậu quả nghiêm trọng mà mục tiêu của nó là đem lại kết quả tốt cho tiến trình khắc phục tình trạng tiêu cực, trì trệ ảnh hưởng xấu đến tiền trình phát triển đất nước theo tinh thần đổi mới của Đảng. Hay nói cách khác cố ý làm trái để đổi mới. Muốn đổi mới mà cứ làm theo tiền lệ thì không thể đổi mới được. Là một doanh nghiệp Nhà nước, chúng tôi muốn có sự bình đẳng và công khai trong kinh doanh, nếu bắt buộc phải thuê kênh của VTI chúng tôi muốn được biết tại sao chúng tôi phải trả giá cao như vậy trong khi nếu mua của đối tác chỉ sau 2 tháng không thuê kênh của VTI là chúng tôi đã hoàn được vốn đầu tư thiết bị”.

Bên cạnh đó các quy định của pháp luật về lĩnh vực BCVT còn nhiều bất cập, đã hạn chế sự phát triển ngành CNTT của đất nước. Bởi vậy trong tờ trình ngày 18/7/2002, SSP đã nêu rõ xin chủ trương của Chính phủ và các ban ngành liên quan để điều chỉnh, bổ sung những nội dung văn bản pháp quy cho xác hợp với tốc độ phát triển CNTT và đáp ứng nhu cầu phát triển nền công nghiệp phần mềm của Việt Nam. Nếu không có một cơ chế phù hợp, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng chảy máu chất xám. Xin lấy một ví dụ: Mới đây, tại Singapore, một Cty của Việt Nam là Cty cổ phần Công nghệ thông tin EIS đã chính thức khai trương hệ thống dịch vụ One- connection (OC) trên toàn cầu. Các cuộc gọi điện thoại qua Internet bằng công nghệ OC của EIS hiện nay có giá cước phí rẻ hơn rất nhiều so với cuộc gọi truyền thống vì nó “biến” các cuộc gọi quốc tế thành cuộc gọi nội hạt. Nhiều doanh nghiệp hoạt động trong ngành CNTT từ nhiều nước đánh giá cao hoạt động này của EIS, thế nhưng việc triển khai dịch vụ OC tại thị trường trong nước hiện vẫn còn gặp rào cản về cơ chế. Oâng Hiền tâm sự: “Tôi đã chui vào “hang hùm” để biết những gì chúng tôi cần biết và tất cả những điều ấy chúng tôi đã có tờ trình lên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ rồi. Chúng tôi không phải chỉ muốn có một đường truyền tốt riêng cho SSP mà là muốn có được một hệ thống Internet đảm bảo chất lượng, giá cả cạnh tranh phục vụ cho yêu cầu phát triển của CNTT cả nước vì viễn thông và Internet chính là cơ sở hạ tầng giao thông để vận chuyển trong trao đổi giao lưu mua bán hàng hoá, mà thứ hàng hoá ấy chứa hàm lượng chất xám cao được sản sinh ra từ kinh tế tri thức nó là yếu tố không thể thiếu được trong tiến trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá cho nền kinh tế quốc gia”.

HỒI ÂM CỦA PHÓ THỦ TƯỚNG

Sau khi bài viết trên đăng trên Báo Pháp Luật số ra ngày 27/2/2003 thì đúng một tháng sau, ngày 27/03/2003 Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký văn bản số 340/CP-CN gửi Bộ Bưu chính viễn thông và các cơ quan chức năng đồng ý cho Trung tâm công nghệ phần mềm Sài Gòn (SSP, 123 Trương Định TPHCM) và Trung tâm công nghệ phần mềm Đà Nẵng làm thí điểm việc thiết lập và quản lý khai thác trạm vệ tinh cỡ nhỏ (VSAT) kết nối Internet phục vụ mục đích chuyên dùng của các trung tâm này, nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ khách hàng, đồng thời phải trực tiếp chịu trách nhiệm đảm bảo các yêu cầu về an ninh thông tin.

Đăng Bình

Keine Kommentare: