Samstag, 25. April 2009

Coi 2 bài của Phạm Trần trong 2 thời gian 2005 và 2009 về ĐCS lãnh đạo VN.

Coi 2 bài của Phạm Trần trong 2 thời gian 2005 và 2009 về ĐCS lãnh đạo VN.
34 năm... Ta đã thấy gì?
Đăng ngày 24/04/2009
Nhìn lại Việt Nam sau 34 năm, không ai có thể ngờ rằng hoà bình đắt giá hơn chiến tranh và lằn ranh ngăn cách giữa người Việt Nam ở hai bên bờ cuộc chiến vẫn còn nguyên đó.
Hãy nhớ lại thời Cộng sản Việt Nam áp dụng chính sách kinh tế bao cấp, trung ương tập quyền, lao động tập thể hợp tác xã, và cảnh người dân xơ xác trong áo quần xốc xếch cầm tem phiếu mua thực phẩm đứng nối đuôi nhau trước các cửa hàng quốc doanh để nghĩ về đời sống bây giờ.

Tình hình kinh tế

Trước hết, ngày nay trên đất nước Việt Nam không còn cảnh xếp hàng đến lượt mình thì cô thư ký cửa hàng nhà nước bảo hết hàng rồi, hay Việt Nam phải nhập cảng gạo như thập niên 70, nhưng vẫn còn hàng chục triệu người dân không có công ăn việc làm ổn định và rất nhiều người vẫn thiếu ăn, thiếu mặc. Và dù đã qua gần 10 năm đầu của Thế kỷ 21 Việt Nam vẫn còn là một trong số quốc gia nghèo nàn và lạc hậu nhất trên thế giới.

Thứ nhì, nhà nước CSVN, từ sau Đại hội đảng IX năm 2000, đã theo đuổi giấc mơ muốn biến đất nước lệ thuộc vào nông nghiệp thành một nước công nghiệp vào năm 2020, nhưng sau hơn 20 năm được gọi là “đổi mới”, tiêu chí này đã có những dấu hiệu khó đạt được.

Thứ ba, dù Việt Nam bây giờ đứng hàng thứ nhì xuất cảng gạo trên thế giới, chỉ sau có Thái Lan, nhưng nhiều triệu người vẫn còn bị đói nghèo. Nhà nước Việt Nam, dựa vào tiêu chuẩn của mình chỉ nhận còn chừng từ 11 đến 13% trong số 85 triệu người dân còn trong diện đói nghèo. Nhưng nếu dựa theo tiêu chuẩn nghèo của Liện Hiệp Quốc thì con số này phải là từ 18 đến 20 phần trăm. Số ngưởi dân tộc (thiểu số) ở vùng cao và cùng sâu vẫn chiếm tỷ lệ đói nghèo cao nhất, nhưng không ai nắm được con số chính xác.
Tuy nhiên, trong một Báo cáo vào tháng 12/2008 nhà nước Việt Nam đã nhìn nhận: “Hiện cả nước có 61 huyện thuộc 20 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%, chiếm khoảng 18% tổng số hộ ở nông thôn vào cuối năm 2007, trong đó trên 90% là đồng bào dân tộc thiểu số”.

Thứ tư, chủ trương nóng vội của Việt Nam từ năm 2000 khi thu hẹp diện tích trồng lúa để lấy đất xây các khu công nghệ do vốn đầu tư của nhà nước, hay hợp doanh với nước ngoài và tư nhân nhưng vì làm dài trải, có tính thi đua, thiếu quy họach, hàng hoá làm ra thiếu tiêu chuẩn, nhất là về phương diện vệ sinh nên hàng xuất khẩu bị trả về, hay chất lượng không tốt bằng hàng nước ngoài khiến ít người mua mà giá thành lại quá cao nên nhiều công ty bị thua lỗ hay phá sản.

Thứ năm, hàng trăm ngàn công nhân trong nước mất việc từ cuối năm 2008 do hậu quả kinh tế suy thoái toàn cầu đã ảnh hưởng đến các công ty nước ngoài và của Việt Nam. Một trong những khuyết điểm kinh tế lớn của nhà nước là đã để lệ thuộc quá lâu vào việc làm mướn (gia công) cho các công ty nước ngoài. Khi các công ty này phải đóng cửa bỏ về nước, hay vì hàng làm ra không bán được nên phải cho công nhân nghỉ việc thì số công nhân, phần đông không có tay nghề, phải đi lang thang kiếm bất cứ công việc gì. Nhiều người trong số họ phải quay về quê ăn bám gia đình, tăng thêm gánh nặng kinh tế xà xã hội cho nông thôn vốn lệ thuộc phần lớn vào đồng lương của số người đi làm xa nhà.

Thứ sáu, tuy có chủ trương “đổi mới”, nhưng đảng CSVN lại vẫn ngông nghênh không chịu “đổi màu” để mở cửa hội nhập toàn diện với thế giới bên ngoài. Nhà nước vẫn chỉ muốn làm ăn theo lối “nửa vời”, có lợi thì mở, không có lợi và không kiểm soát được thì lại co vòi, đóng lại, cộng thêm nạn giấy tờ, thủ tục chồng chất, thiếu minh bạch và không công bằng khiến cho nhiều nhà đầu tư nản lòng bỏ cuộc. Nền kinh tế đã thiếu bền vững, vì vậy càng lung lay hơn.

Thứ bảy, như đã quy định trong Cương Lĩnh năm 1991, đảng CSVN tiếp tục làm kinh tế dựa vào lý luận rất mơ hồ và lung tung là: “Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”.

Chủ trương “nửa đom đóm, nửa đèn dầu” này đã biến thành cái giá quá đắt cho Việt Nam phải trả. Sau hơn 20 năm đổi mới từ năm 1986 dù đã được gia nhập WTO (World Trade Organization) được trên 2 năm, nhưng Việt Nam vẫn chưa được Tổ chức thương mại Quốc tế này nhìn nhận có nền kinh tế thị trường. Vì lý do này, Việt Nam chưa được hưởng các quyền lợi mậu dịch và tài chính do WTO dành cho các nước có thị trường kinh tế tự do, cởi mở, công bằng và ngay thẳng với mọi đối tượng.
Hồi tháng 6/2008, khi đến Hoa Kỳ, Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Việt Nam, đã xin Tổng thống George W. Bush yêu cầu Quốc Hội Hoa Kỳ nhìn nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường nhưng vì ông Bush sắp mãn nhiệm và Quốc Hội sắp phải bầu lại nên yêu cầu này cũng chỉ được “nghe rồi bỏ đấy”. Bây giờ việc này nằm trong tay Tổng thống Barack Obama và Quốc Hội do đảng Dân Chủ kiểm soát , nhưng chưa biết đến bao giờ yêu cầu của Việt Nam mới được đem ra thảo luận.
Tuy nhiên, cho đến bây giờ, trong đảng CSVN vẫn còn một số người có đầu óc bảo thủ và cực đoan nhưng lại có ảnh hưởng trong đảng vẫn khư khư cho rằng Việt Nam không cần phải nhượng bộ theo đòi hỏi của WTO mà cứ giữ vững thứ “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Người đứng đầu nhóm “cãi chày, cãi cối” này là Nguyễn Đức Bình, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Ông Bình viết trên Tạp chí Tuyên giáo, cơ quan tuyên truyền của đảng rằng: “ WTO không thừa nhận nước ta có kinh tế thị trường vì lẽ ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, họ cho ta 12 năm nữa để cắt bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa mới được công nhận là kinh tế thị trường! Mặc họ, ta độc lập, tự chủ, đường ta ta cứ đi, không cần xin họ để có kinh tế thị trường "đầy đủ”! Kinh tế thị trường có nhiều dạng thức, nhiều hình thái khác nhau. Có kinh tế thị trường tự do cổ điển, có kinh tế thị trường chủ nghĩa tự do mới, có kinh tế thị trường xã hội của chủ nghĩa xã hội dân chủ, có kinh tế thị trường chỉ huy v.v… Mỗi kiểu thị trường ấy lại có nhiều mầu sắc khác nhau. Ở nước ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng là một hình thái kinh tế thị trường chứ sao, vậy ai được phép cấm?” (Tạp chí Tuyên Giáo, 11/2008)
Tuy nhiên hiện nay trong đảng CSVN đang có khuynh hướng đòi bỏ chủ trương xây dựng đất nước phải dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những người này cho rằng quan điểm này đã lỗi thời. Nhưng Nguyễn Đức Bình, người đóng vai quan trọng trong việc hoàn thành Cương lĩnh năm 1991 đã chống lại khuynh hướng này trên Tạp chí Tuyên giáo hồi tháng 11 năm 2008.
Phe bảo thủ, tiêu biểu như Nguyễn Đức Bình, đã thể hiện quan điểm của họ trong Cương lĩnh 1991. Họ lý luận rằng: “Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử”.

Bằng chứng tụt hậu

Nhưng cho đến năm 2009, sau 18 năm thi hành Cương lĩnh năm 1991 “Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội”, Việt Nam vẫn chưa tiến được một bước trong sự nghiệp gọi là “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” đất nước.
Để chứng minh cho những nhận định trên, chúng ta hãy cùng đọc Báo cáo của Nhà nước hồi tháng 3/2009: “Bước sang năm 2009, kinh tế thế giới vẫn tiếp tục suy giảm, khó có khả năng phục hồi sớm, tiếp tục tác động tiêu cực lớn đến kinh tế nước ta. Quý I năm 2009, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước chỉ đạt 3,1%, là mức thấp nhất trong nhiều năm qua; xuất khẩu chỉ tăng 2,4%; công nghiệp tăng 2,1%; khách du lịch nước ngoài giảm 16,1% so với cùng kỳ năm 2008; đầu tư nước ngoài chậm lại.”

Mặt khác,Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương cũng đã đưa ra những hình ảnh bi quan của nền kinh tế năm 2009.
Trong báo cáo về “Một số vấn đề cơ bản của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay” tại cuộc Hội thảo dài 2 ngày (13-14/4/2009) của Hội đồng Lý luận Trung ương tại tỉnh Bắc Ninh, Tô Hhuy Rứa nói: “Tốc độ tăng trưởng GDP (Gross Domestic Product, Sản xuất Nội Địa) suy giảm. Hoạt động xuất, nhập khẩu chịu tác động nặng nề. Nguồn vốn đầu tư quốc tế suy giảm, đầu tư nước ngoài vào nước ta cũng chịu ảnh hưởng bất lợi. Các lĩnh vực quan trọng khác cũng chịu những tác động bất lợi của khủng hoảng kinh tế toàn cầu như: sản xuất công nghiệp sụt giảm, thị trường chứng khoán có những biến động rất bất thường, thị trường bất động sản rơi vào tình trạng bị “đóng băng”; nguồn thu ngoại tệ phi mậu dịch – du lịch, xuất khẩu lao động, kiều hối đều giảm. Hoạt động tín dụng có biểu hiện chững lại do xuất khẩu sụt giảm và sức mua trên thị trường nội địa chưa được cải thiện; các ngân hàng đang phải đối mặt với “bài toán” hóc búa về khả năng thanh toán…”
“Về thực tiễn: Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hợp lý và hiện đại hoá còn chậm. Các cân đối vĩ mô trong nền kinh tế còn thiếu vững chắc, thực lực kinh tế của quốc gia còn yếu, dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động từ bên ngoài. Con đường và giải pháp tăng trưởng kinh tế những năm vừa qua, về cơ bản, vẫn dựa chủ yếu vào việc gia tăng quy mô các yếu tố đầu vào, vì thế tỷ lệ giá trị gia tăng trong hầu hết các sản phẩm còn rất thấp.
Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu được coi là chủ lực nhiều năm nay vẫn là nguyên liệu thô, hàng sơ chế, hàng gia công cho nước ngoài, kéo theo sự thua thiệt lớn trong quan hệ thương mại quốc tế.
Kinh tế nhà nước chưa thể hiện rõ vai trò chủ đạo. Nhiều doanh nghiệp nhà nước hiệu quả hoạt động thấp; trình độ kỹ thuật, công nghệ và quản lý vẫn tụt hậu xa so với các nước tiên tiến; tính độc quyền còn cao. Kinh tế tập thể còn nhỏ bé, phát triển chậm, vai trò thực tế còn mờ nhạt. Kinh tế tư nhân chưa phát triển mạnh đúng với tiềm năng.”
Về lực lượng lao động, Tô Huy Rứa nhìn nhận: “Thị trường sức lao động còn sơ khai: nguồn lao động tuy đông về số lượng, gia tăng với tốc độ nhanh, nhưng chất lượng còn rất thấp. Cơ cấu lao động còn nhiều mặt bất hợp lý, lạc hậu và chuyển dịch chậm. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm còn nghiêm trọng”.

Hiểm hoạ xã hội – lãnh thổ

Do tình trạng kinh tế tụt hậu , nhiều tệ nạn xã hội như nạn trộm cắp, mại dâm, ma túy, lường gạt, gây thương tích đều gia tăng gây xáo trộn trong xã hội.
Tô Huy Rứa xác nhận: “Lĩnh vực xã hội :đã có nhiều vấn đề bức xúc, trong năm 2008 và quý I-2009 lại có những dấu hiệu gay gắt hơn và tình hình này có thể còn diễn biến phức tạp”.

Nhưng quan trọng hơn là tình trạng cách biệt giàu-nghèo trong xã hội, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng xa và cao và giữa các sắc dân càng ngày càng giãn ra. Không ai biết rõ số phần trăm của khỏang cách mà chỉ biết chắc rằng, trong khi nhiều cán bộ, đảng viên, nhất là những thành phần có chức và có quyền mỗi ngày một giàu thêm thì những người có đồng lương có định, nông dân và những người dân không có nghề chuyên môn lại nghèo đi, không đủ ăn.

Sự cách biệt giữa những kẻ cầm quyền với người dân còn được chứng minh trong nền giáo dục. Số trẻ em con nhà nghèo thất học ngày một tăng cao, nhất là ở các vùng nông thôn và khu vực thiếu việc làm từ Nam ra Bắc. Một cuộc điều tra ở vùng đồng bằng song Cửu Long cho biết số học sinh con nhà nghèo phải bỏ học trung bình từ 30 đến 40 phần trăm. Số trẻ em ở miền Trung cũng tương tự như thế, nhưng ở vùng cao và vùng hải đảo thì có nơi lên đến hơn 50%.
Trong khi đó, con cán bộ, đảng viên có điều kiện đi học lên đến 90% hoặc cao hơn. Và trong số ngót 100 ngàn học sinh du học có đến 2/3 du học tự túc đều là con nhà giàu và cán bộ, đảng viên.
Sự cách biệt quá xa này đã khiến cho người dân,một số Đại biểu Quốc Hội và ít báo trong nước nêu thắc mắc, nếu không tham nhũng và có cơ hội và phương tiện thu nhập ngoài luồng thì làm sao mà lương cán bộ có thể cho con đi du học nước ngoài ? Bằng chứng “quốc nạn” tham nhũng của Việt Nam vì vậy đã hết thuốc chữa không có gì cần bàn luận sau gần 5 năm có Luật “Phòng, Chống Tham Nhũng” (2005).
Nhân chứng Lê Khả Phiêu, Cựu Tổng Bí thư đảng nói lên điều này với hãng Thông tấn AFP (22/4/09): “Tôi luôn luôn mong ước và mong chờ những kết quả lớn lao hơn trong công tác chống tham nhũng.” (I have always wished and waited for greater results in this fight against corruption)
Ông Phiêu nói: ““Sự tiến triển trong việc chống tham nhũng hiện nay chưa đạt được như ý muốn... Việc khó khăn nhất đối với Việt Nam là làm cách nào để có được một nhà nước trong sạch”. (The progress made leaves much to be desired... The biggest problem facing Vietnam was figuring out how to create a "healthy administration".)

Tình trạng phân hoá và mất đoàn kết dân tộc không chỉ tồn tại giới hạn trong các lĩnh vực giàu nghèo và tham nhũng thối nát trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên mà còn lan rộng giữa người dân ở các địa phương khác nhau.
Nổi bật nhất là tình trạng chia rẽ chưa sao hàn gắn được giữa người miền Nam “bại trận” và những kẻ Bắc “thắng trận” sau 34 năm kết thúc chiến tranh. Cho đến năm 2009, người dân miền Nam có “gốc gác” trong chính quyền cũ vẫn còn bị kỳ thị trong việc xin việc làm, lý lịch con cái của các cựu viên chức và sĩ quan quân đội VNCH vẫn còn là một “chướng ngại vật” trong việc học hành. Thương bệnh binh, nhất là những người bị tàn tật của quân đội VNCH không bao giờ được “tiêu chuẩn” nhà nước chữa trị.

Ngoài ra cũng phải kể đến hoàn cảnh khó khăn hiện nay của khỏang 5 triệu người dân tộc (thiều số) trên Tây Nguyên sau 34 năm thống nhất đất nước. Số dân của núi rừng này vẫn bị đối xữ thiếu công bằng trên nhiều phương diện, nhưng quan trọng nhất là họ vẫn bị kỳ thị trong các lĩnh vực giáo dục, kinh tế và xã hội. Số phận đồng bào dân tộc ở vùng Tây Bắc (miền Bắc), đặc biệt số dân theo đạo Thiên Chúa Giáo, cũng vẫn bị nghi kỵ và chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống.

Trong lĩnh vực chính trị, tuy đảng CSVN luôn luôn đề cao chủ trương “hoà hợp” với những người bất đồng ý kiến, nhưng chưa bao giờ đảng CSVN chịu “hoà giải” với những người một thời đối lập với họ. Nghị quyết 36 "Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài", ban hành ngày 26 tháng 3 năm 2004 là bằng chứng thất bại của chính sách không thật lòng của đảng CSVN nên đã bị tẩy chay bởi người Việt tị nạn đang sinh sống ở nước ngoài.
Ngay cả những người tranh đấu đòi dân chủ và tự do ôn hoà trong nước cũng bị đảng CSVN hù hoạ, bỏ tù và loại bỏ. Bằng chứng của thái độ này đã xảy ra cho các ông Hà Sĩ Phu, Nguyễn Thanh Giang, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Khắc Toàn, Linh mục Nguyễn Văn Lý, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (Ấn Quang) v.v…

Cũng vào thời điểm kỷ niệm 34 năm ngày VNCH rơi vào tay quân Cộng sản thì nguy cơ đất nước có thể bị Tàu hoá đang diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam bằng sự hiện diện ào ạt và phi pháp của hàng ngàn công nhân Tàu làm việc trong các dự án kinh tế, xây dựng trên cả nước và khai thác quặng bauxite trên Tây Nguyên.
Một phong trào phản đối sự có mặt của người Tàu và kế họach khai thác quặng Bauxite dành cho người Tàu thực hiện đang nổi lên ở trong nước và trong các cộng đồng người Việt ở nước ngoài.
Vì an ninh quốc gia và sự tồn vong của dân tộc mà nguy cơ Tàu “quản lý” toàn bán đảo Đông Dương bao gồm Việt-Miên-Lào, sau khi đặt chân vào vùng đất Tây Nguyên chiến lược của Việt Nam cũng đã được đặt ra trong các cuộc thảo luận này.
Việc này xảy ra vào lúc lực lượng hải quân Trung Hoa gia tăng các hoạt động quân sự để bảo vệ cho khu vực lãnh hải rộng lớn mà họ coi là “đặc quyền kinh tế” của họ chiếm tới 75% diện tích của Biển Đông, bao gồm cả hai Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Đó là hình ảnh của Việt Nam cho đến tháng 4 năm 2009, sau 34 năm Hà Nội xua quân chiếm lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hoà từ nam Vĩ tuyến 17 xuống mũi Cà Mau.
Ngày nay tuy đất nước không còn chiến tranh và lãnh thổ không còn bị chia cắt, nhưng lòng người dân ở 3 miền Nam-Trung-Bắc vẫn chưa có cơ hội xích lại gần nhau thì đã phải lo đến hiểm họa ngoại xâm.

Phạm Trần
23/04/2009



Ta đã thấy gì sau 60 năm ĐCS VN lãnh đạo ?

Cộng sản Việt Nam kỷ niệm 60 năm Cách mạng tháng Tám 1945 (2/9/2005) bằng cách trưng ra nhiều thành tích đấu tranh chính trị và quân sự, nhưng lại bôi nhọ lịch sử hào hùng của dân tộc bằng những việc làm hại dân, hại nước trong 30 năm chiến tranh để tiếp tục làm cho dân nghèo, nước mạt sau khi đã có hoà bình.

Trần Đức Lương, Chủ tịch Nước nói trước một cuộc Mít tinh ở Hà Nội : “Nhìn lại những thành tựu vẻ vang của Cách mạng Việt Nam 60 năm qua, chúng ta vô cùng tự hào về dân tộc ta - một dân tộc anh hùng, thông minh, nhân ái, đoàn kết một lòng; tự hào về Đảng ta - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam - luôn vững tay chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi thác ghềnh đến bến bờ vinh quang...”

“...Bên cạnh thành tựu to lớn đã giành được trong 20 năm đổi mới, chúng ta vẫn đang đối mặt với tình trạng kinh tế còn kém phát triển, diện nghèo còn lớn; bộ máy quản lý Nhà nước và hệ thống chính trị còn cồng kềnh, hiệu quả, hiệu lực chưa cao; tệ quan liêu, lãng phí, thiếu trách nhiệm và coi thường kỷ cương phép nước còn diễn ra khá phổ biến; nạn tham nhũng và một số tệ nạn xã hội khác đang gây bức xúc trong xã hội. Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vì hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Bên cạnh đó, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, chủ nghĩa khủng bố… đang đe dọa hòa bình, an ninh và ổn định các quốc gia, các khu vực...”

Đứng trước tình hình đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nguyện đoàn kết một lòng, kiên định con đường cách mạng đã lựa chọn; giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta nhanh chóng trở thành một nước phát triển trong những thập kỷ tới.”

Trước hết, ai trong số 82 triệu người của “dân tộc ta” đã “tự hào về Đảng”như lời tự nhận của Lê Văn Lương ? Và từ ngày cái đảng này lên cầm quyền, đã có bao giờ người dân được đi bỏ phiếu quyết định lấy vận mệnh chính trị của đất nước theo ý muốn và tự do chọn người đại diện cho mình trong guồng máy cai trị của Nhà nước ?

Mọi chuyện từ đó đến nay đều do Đảng chọn Dân bầu hay Nhà nước chỉ, Dân theo chứ có khi nào người dân được quyền từ chối không bầu người đảng chọn ?

Còn nói về tình trạng chậm phát triền, nghèo đói còn nhiều, guồng máy cai trị cồng kềnh, cán bộ quan liêu, tham nhũng,lãng phí của dân, coi thường kỷ cương phép nước cũng chẳng có gì mới lạ nếu so sánh giữa kinh tế thị trường bây giờ với chủ trương kinh tế tập trung, chỉ huy và bao cấp trước năm 1986, khi Tổng Bí thư Đảng Nguyễn Văn Linh phát động chủ trương “Đổi mới hay là Chết”.

Đảng CSVN, từ đó đến nay đã qua một chặng đường dài 20 năm trong “sự nghiệp” Đổi mới có ý hướng vượt qua Tư bản Chủ nghĩa để “quá độ” lên Xã hội Chủ nghĩa, nơi đó, theo quan niệm của những người trong ngành Tư tưởng của đảng thì “không còn cảnh người bóc lột người” và được sống yên vui trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh !

Nhưng những điều đảng nói, nhà nước hứa với dân đã không xẩy ra. Kinh tế Việt Nam vẫn còn tụt hậu, ngay cả với các nước trong khu vực Đông Nam Á; Lợi tức đồng niên của người Việt Nam mới được chừng 480 $. So với dân các nước Thái Lan, Phi Luật Tân, Nam Hàn, Đài Loan, Mã Lai và Tân Gia Ba thì mức thu của họ từ 3 000 $ đến 15 000 $

Trong khi đó, sự ngăn cách giàu – nghèo giữa người dân thành phố với nông thôn, hải đảo, vùng xa, vùng cao càng ngày càng sâu thêm và giãn ra từ 50 đến 80 phần trăm. Dân cư nhiều vùng ven biển từ Vinh vào tận Cà Mâu thiếu đói quanh năm. Các tệ nạn xã hội ma túy, mại dâm, HIV-AIDS, trộm cắp, giết người-cướp của, tai nạn lưu thông mỗi ngày một tăng, khó kiếm soát và nhiều khâu chẳng những không chận đứng được mà xẩy ra tinh vi hơn như buôn lậu, hàng giả, buôn bán phụ nữ trẻ em.

Tình trạng suy thoái đạo đức, tham nhũng, coi dân như con nợ, rơm rác của cán bộ, đảng viên đã làm cho dân mỗi ngày một xa đảng, không còn tìn vào những lời hứa hẹn của cấp lãnh đạo trong cuộc được gọi là “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng” thi hành từ khoá VIII, dưới thời Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí Thư.

Một trong những bằng chứng đảng không chỉ huy chống Tham nhũng là từ trước đến nay, kể cả vụ án lịch sử Năm Cam, đã do dân và báo chí tố cáo. Cấp lãnh đạo các nơi để xẩy ra Tham nhũng hầu như “không hay biết gì và chẳng làm gì dù có biềt.”

BẰNG CHỨNG

Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư Khoá VIII nói : “ Thực ra, những biểu hiện của tiêu cực, nhũng nhiễu, tham nhũng hiện nay cũng chẳng khác trước đây mà chúng ta thường nói. Đó là ai cũng nói rằng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái. Thế nhưng Trung ương nói như vậy, các Ban của Đảng nói vậy, Ban Bí thư nói vậy, Bộ Chính trị cũng nói như vậy. Rồi thì Chính phủ nói như thế, Quốc hội nói thế, xuống đến tỉnh, huyện, xã cũng đều nói thế...”

“ ...Nhưng điều quan trọng nhất là những cán bộ, đảng viên suy thoái đó là những ai, ở cơ quan nào và trách nhiệm cụ thể của cơ quan đó ra sao thì lại chưa chỉ rõ ra. Như thế, tức là chúng ta còn che giấu, còn chưa dám nói lên sự thật và chưa chống một cách quyết liệt...”

Tiền Phong hỏi : Dư luận cũng nói rằng sở dĩ tham nhũng chưa giảm là do chúng ta còn né tránh, hay nói một cách hình ảnh là chỉ tắm từ vai trở xuống?”

Lê Khả Phiêu đáp: “Chúng ta còn hiện tượng cứ sợ nói thẳng ra, phanh phui ra là sẽ làm mất uy tín của Đảng...”

“... Nếu cứ làm như hiện nay thì càng chống, càng tăng. Vì chống tham nhũng mà trước hết không tự mỗi tổ chức, mỗi cá nhân, không gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng bộ máy thì không thể chống được.” (Báo Tiền Phong, 21-5-05)

Võ Văn Kiệt, Cựu Thủ tướng cũng đã nhận xét về đội ngũ cán bộ đảng bây giờ là chỉ : “ “Quen "hành dân" và hành hạ lẫn nhau của bộ máy nhà nước các cấp là một thực tế nhức nhối. Vì không tạo được mối quan hệ gắn bó với Dân nên nạn tham nhũng càng có điều kiện hoành hành” (Tạp chí Xây dựng Đảng số tháng 4/05)

Trước Lê Khả Phiêu nhưng sau Võ Văn Kiệt còn có cả Lê Đức Anh, cựu Chủ tịch Nước cũng gắt gao lên án tham nhũng trong cuộc phỏng vấn của báo điện tử VietNamNet (30-4-05). Anh bảo rằng tình trạng tham nhũng sau khi Lê Đức Anh mãn nhiệm cách nay 8 năm và hiện tại đã trở thành một tệ nạn.

Lê Đức Anh nói : “ Điều đáng lo ngại hơn, nó đang thành hiện tượng phổ biến, khó giải quyết. Muốn giải quyết được thì phải củng cố và xây dựng Đảng, các chi bộ phải đấu tranh để loại bỏ bằng được tham nhũng trong Đảng thì mới mong chống được tham nhũng trong xã hội. Bộ Chính trị và Trung Ương có quyết tâm nhưng chưa đủ, chưa có biện pháp tổng thể và hiệu quả.”

Lê Đức Anh cũng tỏ ra hối tiếc là khi trao chức lại cho Trần Đức Lương thì vẫn chưa thực hiện được ước nguyện “chống cho hết tham nhũng”.

Nói đến tình trạng cán bộ lãng phí của mồ hôi nước mắt của nhân dân thì vô cùng. Tào Hữu Phùng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội tuyên bố với hãng tin điện tử VnExpress (Tin nhanh Viet Nam,25-5-05) : “ Lãng phí lớn nhất là trong xây dựng cơ bản ở hầu hết các khâu. Lãng phí từ chủ trương đầu tư không đúng, không đồng bộ dẫn tới đầu tư sai. Chẳng hạn, khi giám sát quy hoạch, xây dựng 34 nhà máy đường thì mới thấy đau xót, nợ lên tới 3.000 tỷ đồng không trả được, hàng năm lãi phải trả ngân hàng tới cả nghìn tỷ đồng. Chúng ta đã tìm nhiều giải pháp nhưng không giải quyết nổi do đã sai từ gốc, từ chủ trương đầu tư. Ví như nhà máy đường Linh Cảm (Hà Tĩnh), vụ mía chỉ có 2-3 tháng rồi hết, hoặc có tỉnh như Khánh Hòa có tới 2-3 nhà máy đường...”

“Dự án đánh bắt xa bờ cũng vậy, giờ vỡ nợ chỉ thu hồi được 15-20% vốn đầu tư. Rồi đầu tư xong, nhà máy không sử dụng được do thiếu nguyên liệu như nhà máy hoa quả Bắc Giang, nhà máy cà chua Hải Phòng... Không quy hoạch vùng nguyên liệu, không cân đối khả năng chế biến với vùng nguyên liệu, lãng phí rất tai hại....”

Đề cập đến cán bộ tiêu tiền dân để phô trương, tranhg trí lệ lạt cho cơ quan mình, Phùng nói : “ Nhiều năm làm thứ trưởng Tài chính tôi rất "thấm đòn" với những dịp lễ lạt. Mỗi lễ đón nhận Huân chương, kỷ niệm thành lập ngành, khai trương... lẵng hoa tặng tơi tới, tiệc tùng tràn lan. Tôi vừa đi dự sơ kết 5 năm thực hiện kế hoạch của một cơ quan mà đếm được tới 25 lẵng hoa, lẵng rẻ nhất cũng là 200.000 đồng. Với tối thiểu 5 triệu đồng, nếu suy tính chi li, có thể giúp đỡ bao nhiêu trẻ em khó khăn!”

Còn Nguyễn Sinh Hùng, Bộ trưởng Tài chính thì nói trước Quốc hội hôm 24-5 (05): “Tuy nhiên, cần nhìn nhận nghiêm túc là sự lãng phí, thất thoát vẫn còn lớn, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư, doanh nghiệp Nhà nước, chi tiêu ngân sách.”

Thông tín viên Nguyên Hằng của Báo Người Lao Động viết về phiên họp này: “Pháp lệnh Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đã đi vào cuộc sống 6 năm nhưng hiệu quả của nó còn nhiều hạn chế, đưa đến tình trạng “càng chống càng tăng”, lãng phí ở mọi lúc mọi nơi.”

Và theo Báo cáo của Chính phủ ngày 29-4-2005 thì tình trạng lãng phí của cán bộ,đảng viên đa hết thuốc chữa. Họ coi tiền mồ hôi nước mắt của nhân dân là đồng tiền vô chủ nên mạnh ai nấy tiêu.

Báo cáo viết : “ Tổng số tiền chi tiếp khách ở 2.099 đơn vị là 196,44 tỉ đồng; tiền chi quà biếu ở 363 đơn vị là 9,4 tỉ đồng (số liệu của năm 2001). Tình trạng lãng phí vẫn còn xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực.”

“Trong quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách Nhà nước, tài sản công: Nhiều cơ quan, đơn vị không thực hiện đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ quy định. Năm 2002 và 2003, kiểm tra 1.187 đơn vị thuộc 61 tỉnh, thành trực thuộc Trung ương và 174 đơn vị thuộc 29 bộ, ngành cho thấy: 1. Về trang bị và sử dụng ô tô, nhiều cơ quan, đơn vị trang bị ô tô vượt quá hoặc không đúng tiêu chuẩn quy định, quản lý, sử dụng thiếu chặt chẽ. Tổng số ô tô mua vượt về giá là 467 xe với số tiền 55,86 tỉ đồng (đến năm 2004 đã xử lý được 456 xe, tương đương 51,94 tỉ đồng); 2. Về trang bị và thanh toán cước điện thoại, số tiền chi vượt định mức, sai đối tượng là 10,43 tỉ đồng (đến ngày 12-4-2005 đã xử lý được 9,34 tỉ đồng); 3. Vẫn còn hiện tượng lãng phí, phô trương, hình thức trong chi tiếp khách, quà biếu, quà tặng. Chỉ tính riêng năm 2001, tổng số tiền chi tiếp khách tại 2.099 đơn vị là 196,44 tỉ đồng, tổng số tiền chi quà biếu tại 363 đơn vị là 9,4 tỉ đồng.”

“Lãng phí trong các doanh nghiệp Nhà nước còn rất lớn; hiệu quả sản xuất kinh doanh thép, chi phí gián tiếp cao; tình trạng chiếm dụng vốn, mất vốn còn phổ biến. Như Tổng Công ty Lương thực Miền Nam góp vốn bằng quyền sử dụng đất 2,42 triệu USD thành lập liên doanh sản xuất gạo xuất khẩu Việt - Mỹ, sau 4 năm lỗ gần 80 tỉ đồng...”

Đấy, chi tiêu vô tội vạ như thế thì hèn chi nhân dân chẳng còn đói dài và Việt Nam chưa thể thoát nghèo tận mạng. Điều làm cho mọi người thắc mắc là những cán bộ, đảng viên có trách nhiệm trong lãng phí lại vẫn nghiễm nhiên tại chức,lên lương thì chỉ có ở Việt Nam, dưới thời cai trị của đảng CSVN mới có chuyện nhiêu khê này. Câu nói tuyên truyền “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền” có giá trị gì không ?

Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư đảng nhìn nhận : “ Trên các chặng đường cách mạng vừa qua, phấn đấu theo tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng, số đông cán bộ, đảng viên ta đã giữ được phẩm chất và đạo đức của người cán bộ cách mạng, hoàn thành nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho. Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận không nhỏ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống. Có những đồng chí từng được giao giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo các cấp có quá trình chiến đấu anh dũng, nhưng trong thời kỳ mới lại vì tranh giành lợi quyền, không thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, coi thường kỷ cương, kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước mà mắc nhiều lỗi lầm về tham ô, lãng phí, gây mất đoàn kết nội bộ...” (Diễn văn kỷ niệm 115 năm ngày sinh nhật Hồ Chí Minh (19-5-1890 / 19-5-2005), tổ chức tại Hà Nội, 18-5-05)

BIỆN BẠCH
Sau khi đã nhìn thấy bức tranh của tình trạng đất nước do cấp Lãnh đạo đảng và Nhà nước CSVN trưng ra có ai còn tin đảng CSVN có tư cách và bản lĩnh để tiếp tục lãnh đạo đất nước ?

Nhưng đảng Cộng sản không phải đương đầu tranh cử với một lực lượng đối lập nên cứ tiếp tục nói văng mạng đề cao Chủ nghĩa Mác-Lênin và cái được gọi là Tư tưởng Hồ Chí Minh là con đường duy nhất thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam.

Đảng này còn tự tung tự tác nói rằng chính nhân dân Việt Nam đã chọn đi theo Chủ nghĩa Cộng sản và trao cho Đảng cái quyền cai trị nhân dân suốt đời như đã ghi trong điều 4 Hiến pháp (Ðảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Mọi tổ chức của Ðảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.)

Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 12 của đảng Cộng sản Việt Nam kết thúc sau 10 ngày họp (4-13/7/05), Nông Đức Mạnh chỉ thị lựa chọn nhân sự cho Ban Chấp hành Trung ương khóa X dự trù diễn ra vào khỏang tháng 4/2006 theo tiêu chuẩn : “ Ðể có Ban Chấp hành Trung ương mạnh, công tác nhân sự Ðại hội X phải nhằm mục tiêu chung là lựa chọn, giới thiệu, bầu vào Ban Chấp hành Trung ương những đồng chí thực sự có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu và lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”......

Đỗ Mười nói : “ Xác định rõ đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là quan niệm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp. Kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt, sáng tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới.”

Nội dung này sau đó còn được phản ảnh bàng bạc trong các bài viết của Nguyễn Đức Bình, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương (dưới thời Lê Khả Phiêu) nhấn mạnh hai mục tiêu cũa đảng CSVN : “Đổi mới nhưng Không đổi mầu” và “Hội nhâp mà Không hoà tan.”

Nhưng với chủ trương “cố đấm ăn xôi” này, mỗi ngày đã có thêm bằng chứng cho thấy đảng và nhà nước VN chỉ làm cho dân nghèo thêm và đất nước tụt hậu sâu hơn. Vì vậy mà tại sao bây giờ số cán bộ, đảng viên mất kiên định tư tưởng, hay còn gọi là chệch hướng, mỗi ngày một đông hơn và số người nghi ngờ mục tiêu Cách mạng tháng Tám của đảng cũng gia tăng theo thời gian. -/-


Phạm Trần